Tiểu sử Chiêu Huệ vương hậu

Chiêu Huệ vương hậu họ Hàn (韓氏), quê ở Thanh Châu, sinh vào năm Triều Tiên Thế Tông thứ 19 (1437), cha là Tây Nguyện phủ viện quân Hàn Xác (西原府院君韓確), mẹ là Nam Dương phủ phu nhân Hồng thị (南陽府夫人洪氏). Bà có hai người cô đều vào hầu hạ trong nội cung nhà Minh. Người lớn là Khang Huệ Trang Thục Lệ phi (康惠莊淑麗妃), phi tần của Minh Thành Tổ Chu Đệ[1][2], khi Thành Tổ qua đời thì bị bắt tuẫn táng. Người nhỏ là Cung Thận phu nhân (恭慎夫人), nữ quan hậu cung thời Minh Tuyên Tông Chu Chiêm Cơ.

Gia tộc họ Hàn bấy giờ rất hiển hách, Chương Thuận vương hậu, An Thuận vương hậuCung Huệ vương hậu các đời quân chủ đều xuất thân từ gia tộc này. Phải kể đến trong đó là Hàn Minh Quái, đại thần nhiều quyền thế trứ danh thời kì đầu của lịch sử Triều Tiên. Ngoài ra, tổ mẫu Quyền thị của Trinh Hi vương hậu Doãn thị cũng có quan hệ họ ngoại với gia tộc họ Hàn.

Ban đầu, bà thành hôn với danh thật tông thất phu nhân, khi đó chồng bà Lý Chương có tước hiệu Đào Nguyên quân (桃源君). Đến năm 1455, cha chồng bà là Thủ Dương đại quân Lý Nhu soán vị, trở thành Triều Tiên Thế Tổ, chồng bà Lý Chương trở thành Vương thế tử, còn Hàn thị cũng vì thế trở thành Thế tử tần. Tuy nhiên, viễn cảnh phú quý không kéo dài, sau khi bà sinh hạ con trai út Lý Huyện thì chồng bà bạo bệnh và mất vào năm 1457, khoảng 3 năm sau khi Thế Tổ đoạt ngôi. Kế vị Trữ quân là người em chồng Hải Dương đại quân Lý Hoảng, Hàn thị bị cải phong hiệu thành Trinh tần (貞嬪), từ vị quốc mẫu tương lai thoáng chốc bà trở thành Thế tử di sương, mất đi vị trí vốn có của mình.

Vài năm sau (1466), Thế Tổ thấy Nguyên Kính Vương hậu đương thời đã từng có hiệu Trinh tần, nên cải phong Hàn thị thành Túy tần (粹嬪)[3]. Khi đến tuổi, con trai bà được phong làm Giả Sơn quân (者山君) và kết hôn với một người trong họ mẹ là Thiên An quận phu nhân Hàn thị, sau này chính là Cung Huệ vương hậu.